Hình minh hoạ: Một hồ chứa ở Đông Nam bộ |
Trong Luật Bảo
vệ Môi trường được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 có một chương quy định về
vấn đề bảo vệ môi trường biển, nước sông và các nguồn nước khác; trong đó đặc
biệt nhấn mạnh phòng ngừa và hạn chế chất thải từ đất liền và từ các hoạt động
trên biển, các địa phương trong lưu vực sông, nguồn thải trên lưu vực sông phải
được điều tra, đánh giá và có giải pháp kiểm soát, xử lý trước khi thải vào sông.
Riêng với nguồn nước hồ, ao, kênh mương, rạch, hồ chứa nước phục vụ mục đích
thủy lợi phải được điều tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng và bảo vệ để điều
hòa nguồn nước. Tuy nhiên, sau 3 năm thực hiện Chiến lược Quốc gia về Bảo vệ Môi
trường đến năm 2010, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận định tình trạng vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn xảy ra một cách phổ biến, thường xuyên trên
nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ với tính chất và mức độ ngày càng
nguy hiểm.
Trong Luật Tài nguyên nước, có hai nguyên tắc chia sẻ tài nguyên nước. Nguyên
tắc thứ nhất là “nước cho cuộc sống” được ưu tiên cao nhất so với các loại hình
sử dụng nước khác. Nguyên tắc thứ hai là việc khai thác và sử dụng nước không
được vượt quá “ngưỡng khai thác tài nguyên nước cho phép” và phải ổn định, tránh
làm suy kiệt và thoái hóa tài nguyên nước. Chiến lược quốc gia về Tài nguyên
nước đến năm 2020 cũng nêu rõ: “Phân bổ, chia sẻ tài nguyên nước hài hòa, hợp lý
giữa các ngành, các địa phương, ưu tiên sử dụng nước cho sinh hoạt, sử dụng nước
mang lại hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo dòng chảy môi trường; trước mắt đến năm
2010 thực hiện phân bổ tài nguyên nước bảo đảm khai thác có hiệu quả 10,5 triệu
ha đất trồng cây hàng năm và cây lâu năm với mục tiêu đạt sản lượng lương thực
an toàn từ 39 đến 40 triệu tấn/năm; bảo đảm tổng công suất các nhà máy thuỷ điện
đạt khoảng 13.000 – 15.000 MW; nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt khoảng 640.000 ha,
nước lợ khoảng 800.000 ha; tăng lượng nước cấp cho công nghiệp 70 – 80% so với
mức năm 2000. Dự tính đến năm 2035, nếu vẫn sử dụng nước lãng phí như hiện nay,
bình quân mỗi người dân ở nước ta chỉ được 2.700 m3 nước/năm, thấp hơn lượng
nước bình quân do Tổ chức Tài nguyên Nước toàn cầu đưa ra tới 1.300m3 mỗi năm.
Ngoài ra việc thiếu nước còn do phân bổ nguồn nước cho các nhu cầu sử dụng chưa
hiệu quả.
Ngoài ra, một trong những ảnh hưởng của việc trữ nước trong hồ chứa được phát
hiện gần đây là các thực vật bị ngập và biến đổi thành phần đã thải ra mê-tan và
đi-ô-xít các-bon, khí gây hiệu ứng nhà kính. Như vậy, việc trữ nước hồ chứa muốn
phục vụ cho sinh hoạt thì đỏi hỏi các nhà máy nước phải xử lý khá phức tạp và
tốn kém. Do vậy, dù các hồ chữa thuỷ điện có nhiều nước, có thể đảm bảo cho sản
xuất nông nghiệp và phát điện đi nữa, thì vấn đề thiếu nước cho sinh hoạt cần
phải được quan tâm. Ngoài ra, việc tưới cho mục đích nông nghiệp thường đi kèm
với các tập quán canh tác thâm canh, có sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón, khiến ô
nhiễm nước sông, ô nhiễm nước cho những người sử dụng dưới hạ lưu và có thể gây
hại cho các loài thủy sinh.
Bên cạnh đó, phương thức tưới ngập, tưới tràn trên mặt ruộng như hiện nay lại
càng gây nên sự thiếu nước trầm trọng, nhất là trong những năm khô hạn. Vì vậy,
chỉ có quản lý tổng hợp tài nguyên nước trên cơ sở bảo đảm cả chất lượng và dung
lượng trên toàn lưu vực, thì mới có thể giải quyết tốt cho nhu cầu sử dụng nước
ngày càng tăng. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đưa ra những định hướng phòng
chống hạn cụ thể, nhất là cần phải tiết kiệm nước trong mọi hoạt động kinh tế -
xã hội.
Từ những giải pháp này, cần có sự quan tâm của toàn xã hội và các Bộ, ngành liên
quan. Có như vậy mới hướng tới việc đảm bảo an ninh về nước, tạo ra, phát triển,
tái sử dụng các nguồn nước để phục vụ những nhu cầu thiết yếu nhất.
Cùng với các biện pháp trên, để giải quyết tình trạng khô hạn, vấn đề cần ưu
tiên hiện nay là xây dựng các công trình hồ chứa nước có dung tích lớn; kiên cố
hoá kênh mương; tăng cường công tác quản lý các công trình thuỷ lợi. Điều quan
trọng nữa là phải đặt vấn đề trồng rừng và bảo vệ rừng lên hàng đầu để giữ nước
chống lũ lụt: Bảo vệ và tái tạo lại rừng phòng hộ đầu nguồn cho các công trình
thuỷ lợi là việc làm cấp thiết vì rừng có chức năng giữ độ ẩm cho đất, tạo nguồn
sinh thuỷ. Đây cũng chính là những giải pháp nhằm phát triển bền vững tài nguyên
nước mà Chiến lựơc quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020 đề cập. Bên cạnh đó,
ngày 8 tháng 1 vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 04/2007/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định 67 ngày 13/6/2003 của Chính phủ về phí bảo vệ
môi trường đối với nước thải. Nghị định sửa đổi không quy định mức thu phí bảo
vệ môi trường đối với nhu cầu ô xy sinh hoá có trong nước thải, còn mức thu phí
đối với các chất gây ô nhiễm khác trong nước thải vẫn được giữ nguyên. Theo Nghị
định 04, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là khoản thu thuộc Ngân sách
Nhà nước, được để lại một phần cho cơ quan, đơn vị trực tiếp thu phí trang trải
cho việc thu phí, đánh giá, lấy mẫu phân tích nước thải đối với nước thải công
nghiệp phục vụ cho việc thu phí hoặc điều chỉnh định mức phát thải của chất gây
ô nhiễm.
Cùng với các biện pháp sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu; bảo đảm khai thác, khai
thác, sử dụng hợp lý giữa nguồn nước mặt và nguồn nước dưới đất; quản lý nhu cầu
sử dụng nước, khuyến khích tái sử dụng nước và sử dụng tiết kiệm..., thì việc xử
phạt các đơn vị xả nước thải chưa qua xử lý vào nguồn nước sẽ tạo điều kiện hạn
chế ô nhiễm nguồn nước, đảm bảo nhu cầu sử dụng nước cho từng mục đích sản xuất
nông nghiệp, thủy điện, sinh hoạt.
Theo VOV, Bộ Tài nguyên Môi trường