|
Để có thể đưa ra những bản tin dự
báo về các dạng thiên tai nguy hiểm như bão, lũ quét, lũ bùn đá… ngoài việc đầu
tư về công nghệ, vấn đề con người, sự phối hợp cũng cần được chú trọng.
Từ những con số
Theo thống kê của Ban Chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương, năm 2006, thiên
tai bão lũ đã cướp đi sinh mạng 339 người và làm 274 người mất tích, 2.065 người
bị thương, 75 ngàn ngôi nhà bị đổ và trôi, rất nhiều ngôi nhà hư hỏng, hàng ngàn
tàu thuyền bị chìm... gây thiệt hại về vật chất tới hơn 18.560 tỉ đồng (tương
đương 1,19 tỉ USD) và là năm thiệt hại lớn nhất kể từ năm 1971 đến nay. Trong đó,
gây mất mát về người lớn nhất là cơn bão Chanchu, tới 266 người; bão số 6 làm 76
người chết và mất tích, 532 người bị thương; bão số 9 chết và mất tích hơn 90
người, gần 1.400 người bị thương. Ngoài ra, thiên tai do lốc xoáy, mưa đá, hạn
hán... cũng gây thiệt hại hơn 340 tỉ đồng, làm 16 người chết và mất tích.
Những thiệt hại trên một phần là do công tác cảnh báo, dự báo còn thụ động, công
nghệ dự báo lạc hậu. Tuy nhiên, theo bà Dương Liên Châu – Phó Giám đốc Trung tâm
Khí tượng Thủy văn (KTTV) Quốc gia, vấn đề đưa ra cảnh báo cũng quan trọng nhưng
không có nghĩa là sẽ hạn chế được tối đa những thiệt hại do thiên tai gây ra.
Nhất là khi người dân còn khá chủ quan với các hiện tượng thiên tai nguy hiểm và
coi thường tính mạng của mình. Ngay cả khi biết có bão, nhưng nhiều người vẫn cố
tình ra biển. Có những trường hợp chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng
phải dùng biện pháp cưỡng chế, nhưng vì cuộc sống họ vẫn tìm mọi cách “trốn” ra
biển.
Cần biện pháp đồng bộ
Theo Pgs.Ts. Nguyễn Trọng Yêm - Viện Địa chất (Viện Khoa học và Công nghệ Việt
Nam): Bất kỳ ai, từ người dân thường cho đến các nhà quản lý, nhà khoa học… cũng
cần có những hiểu biết nhất định về các dạng thiên tai nguy hiểm để tự bảo vệ
mình và phát huy trách nhiệm với cộng đồng. Chính vì thế, một trong những giải
pháp cần thiết đó là phải tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức. Bên cạnh đó
cũng phải quy hoạch sử dụng lãnh thổ; nghiên cứu cảnh báo, dự báo; xây dựng
những quy định có tính pháp luật; xây dựng kế hoạch và tổ chức ứng phó khẩn cấp;
triển khai các giải pháp công trình thích hợp ở những nơi cần thiết; xây dựng tổ
chức thích hợp và xây dựng kế hoạch chiến lược phòng tránh bão, lũ.
Gs. Ngô Đình Tuấn (Đại học Thủy Lợi) cho rằng, để phòng chống hiệu quả lũ lụt,
cần kết hợp các bản đồ phân vùng chi tiết với các dự báo khí tượng, thuỷ văn,
đặc biệt là lượng mưa, từ đó cảnh báo cụ thể cho từng địa phương. Điều này có
thể thực hiện được nếu các cơ quan hợp tác với nhau.
Tuy nhiên, hiện Việt Nam chưa thể dự báo chính xác lượng mưa vì điều này phụ
thuộc vào các yếu tố: phải có nhiều trạm đo tự động, hệ thống rađa dày để có thể
phát hiện những đám mây giông có khả năng gây mưa lớn; thiết lập mạng lưới dự
báo cực ngắn...
Được biết, mới đây Trung tâm KTTV đã đầu tư hệ thống thu ảnh vệ tinh địa tĩnh (MTSAT)
và chạy mô hình dự báo số trị có độ phân giải cao. Với hệ thống này, Việt Nam
hoàn toàn có thể dự báo bão trước 48 giờ, 72 giờ.
Tuy nhiên, bà Châu cũng khẳng định: với những công nghệ hiện đại hơn, khi đất
nước có điều kiện, có thể đầu tư được, nhưng có con người làm chủ công nghệ hiện
đại còn khó hơn. Chính vì vậy, thời gian tới ngành KTTV sẽ đào tạo đội ngũ kế
cận để có thể nắm bắt và làm chủ công nghệ. Trước mắt, ngành sẽ cố gắng trong
việc đưa ra các thông tin dự báo, cảnh báo sớm, nhưng để công tác phòng chống
thiên tai hiệu quả, chắc chắn phải có sự phối hợp của các cấp, các ngành và đặc
biệt là sự hợp tác của người dân.
Bích Ngọc
Theo Báo Khoa học và phát triển