công nghệ thủy lợi
phục vụ
phát triển bền vững

|
Ngày 6/4/ 2018 tại TP. HCM, Viện Địa chất Nước và Môi trường thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật VN phối hợp với Công ty CP Nước và Môi trường Hoàng Gia đã tổ chức thành công Hội thảo khoa học “Dự án Đê biển Vũng Tàu - Gò Công trong chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu Đồng bằng sông Cửu Long”.
Hội thảo diễn ra với sự chủ trì của GS.TSKH Đặng Vũ Minh - Chủ tịch
Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật VN và GS.TS Đào Xuân Học -
Chủ tịch Hội Thủy lợi VN.
Tham dự hội thảo còn có ông Nguyễn Hồng Quân -Nguyên Bộ trưởng Bộ
Xây dựng, ông Nguyễn Đình Toàn - Thứ trưởng Bộ Xây dựng, ông Đào
Quang Tuynh - Phó vụ trưởng Vụ Nông nghiệp, ông Đỗ Văn Thành - Phó
Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy lợi (Bộ NN & PTNT), ông Vũ Viết Hưng -
Phó Cục trưởng Cục quản lý xây dựng công trình (Bộ NN 7 PTNT), ông
Lê Quang Thành - Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội và Tự nhiên (Bộ Khoa
học và Công nghệ)
Theo báo cáo chính tại Hội thảo, Dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công là
Dự án đa mục tiêu cho khu vực TP.HCM và vùng đô thị mới với diện
tích ảnh hưởng 1.100.000 ha được đề xuất bởi Tổng cục Thủy lợi, Bộ
NN&PTNT vào năm 2009. Ngay từ năm 2011, một tập thể các nhà khoa học
thuộc nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học khác nhau của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đã hoàn thành công trình khoa học “Quy hoạch
đê biển Vũng Tàu - Gò Công”. Tuy là công trình mang tên Quy hoạch,
nhưng kết quả thực hiện đã đạt mức nghiên cứu tiền khả thi của một
Dự án đáp ứng tất cả các yêu cầu trên của TP. Hồ Chí Minh và các
tỉnh miền Đông ĐBSCL. Tiếp theo, để “Xác lập cơ sở khoa học và thực
tiễn cho việc xây dựng Tuyến đê biển Vũng Tàu - Gò Công” Bộ Khoa học
và Công nghệ đã cho triển khai thực hiện 6 Đề tài nghiên cứu khoa
học độc lập cấp Nhà nước do 6 Tổ chức KH&CN thuộc 4 Bộ ngành khác
nhau chủ trì thực hiện trong 3 năm 2011-2014, gồm: Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi
trường và Hội Cảng - Đường thủy - Thềm lục địa thuộc Liên hiệp các
Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam.
Dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công là giải pháp tổng thể để giải quyết
triệt để vấn đề ngập úng do tổ hợp tác động của lũ thượng nguồn, mưa
lớn và triều cường, chống xâm nhập mặn, đồng thời cũng là công trình
chống nước biển dâng, chống biến đổi khí hậu ở thế chủ động cho
1.100.000 ha. Ngoài ra còn tạo quỹ đất 43.000 ha, tạo động lực phát
triển cho vùng. Dự án không chỉ là một Dự án thủy lợi thuần túy, mà
còn là một Dự án phát triển kinh tế - xã hội trong vùng. Kế hoạch
đầu tư dự án được đề nghị chia làm 3 giai đoạn với tổng vốn đầu tư
là 74.000 tỷ đồng.
Tuyến đê biển Vũng Tàu - Gò Công nếu được xây dựng với chiều
dài đê chính khoảng 28km, đê phụ dài 13 km, đê chống tràn ở rừng Cần
Giờ 60km, với cống trên đê Vũng Tàu - Gò Công rộng 2000m, âu thuyền
trên đê Vũng Tàu - Gò Công rộng 33m, cống và âu thuyền trên sông
Lòng Tàu rộng 200m, sẽ tạo ra một hồ chứa nước rộng 43.000ha, với
dung tích hữu ích 1,5tỷ m3. Nếu sử dụng hệ thống cống trên đê và
cống trên sông Lòng Tàu để điều tiết lũ, công trình có thể chống lại
tổ hợp lũ 200 năm xuất hiện một lần (P=0,5%), mà mực nước cao nhất ở
Phú An chỉ là +0,64m, giảm 0,97m so với trước khi có công trình là
1,61m. Công trình có thể chống ngập do triều, do lũ, tạo mực nước
thấp để tiêu thoát nước mưa cho toàn bộ khu vực TP.HCM, chống ngập
lũ cùng với triều cường cho TP. Tân An cho đến khi nước biển dâng
thêm 100-130cm.
Khi xây dựng đê biển Vũng Tàu - Gò Công với cống kiểm soát
triều rộng 2000m, nhưng bỏ ngỏ sông Lòng Tàu (giao thông thủy đi vào
khu vực TP. HCM gần như không bị ảnh hưởng), thì Dự án vẫn đảm bảo
tiêu chuẩn chống ngập lụt cho khu vực Thành phố Hồ Chí Minh ứng với
tổ hợp lũ 200 năm xuất hiện một lần, cho đến khi mực nước biển dâng
thêm 50cm (khoảng 70 năm sau theo kịch bản nước biển dâng).
Nếu xây dựng đê biển Vũng Tàu - Gò Công với cống kiểm soát
triều rộng 1000m, nhưng bỏ ngỏ sông Lòng Tàu, thì Dự án vẫn đảm bảo
tiêu chuẩn chống ngập lụt cho khu vực TP. HCM ứng với tổ hợp lũ 200
năm xuất hiện một lần, cho đến khi mực nước biển dâng thêm 35cm (khoảng
gần 50 năm sau theo kịch bản nước biển dâng).
Đê biển làm tăng khả năng tiêu thoát cho vùng đô thi mới, rút ngắn
thời gian ngập gần một tháng Do vậy không cần bơm vợi nếu gieo cấy 2
vụ. Nếu kết hợp với công trình kiểm soát lũ vùng đô thị mới (phương
án chủ động sống chung với lũ), thì chủ động hoàn toàn việc quản lý
tiêu thoát nước.
Giải quyết vấn đề xâm nhập mặn trên sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ và khu
vực Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang một cách chủ động. Là nơi dự trữ
nước ngọt trong tương lai: chúng ta có một hồ chứa, dự trữ nước ngọt
2,5-3 tỷ m3. Để xây dựng một hồ chứa 3 tỷ m3 ở trên núi chúng ta mất
diện tích đất rừng và đất ruộng khoảng 20.000 ha và kinh phí xây
dựng khoảng 80.000 tỷ đồng. Vấn đề này sẽ được thực hiện sau khi
việc xử lý môi trường bên trong khu vực được giải quyết và khi thiếu
hụt nguồn nước ngọt do tác động từ thượng nguồn theo kịch bản cực
đoan (có công tình khống chế Biển Hồ).
Do gần như không cần giải phóng mặt bằng, mặt bằng thi công
rộng, hạng mục công trình ít nên công trình có thể rút ngắn thời
gian thi công. Thời gian xây dựng đê có thể thực hiện từ 2-3 năm,
thời gian xây dựng cống có thể thực hiện từ 3-4 năm (Dự án Neworlean
thực hiện xây dựng trong 2 năm). Do bỏ ngỏ Lòng Tầu, nên việc giao
thông thủy gần như không bị ảnh hưởng trong khoảng 70 năm tới.
Giao thông thủy trong khu vực TP.HCM và từ TP.HCM đi các tỉnh
miền Tây rất thuận lợi, không phải qua nhiều âu thuyền ở các hệ
thống sông và kênh.
Công trình không ảnh hưởng đến rừng Cần Giờ, không ảnh hưởng
đến giao thông vào cảng nước sâu Cái Mép, Thị Vải. Trong 70 năm tới
không ảnh hưởng đến giao thông thủy vào TP.HCM. Theo tính toán mô
hình về tác động môi trường, thì công trình không gây tác động xói
lở khu vực bãi tắm của Vũng Tàu và các khu vực lân cận thuộc đồng
bằng sông Cửu Long.
Tác động tới sinh kế của một số người dân nuôi nghêu, sò ở
cửa sông và bên ngoài vùng rừng Cần giờ, có thể khắc phục được thông
qua tính toán đầy đủ chí phí thiệt hại đến nuôi trồng thủy sản và
chuyển đổi sang làm du lịch, dịch vụ và sẽ được tính toán chi tiết
trong giai đoạn tiếp theo của Dự án.
Xét về mặt môi trường, các tác động tiêu cực của Dự án thấp
hơn so với các tác động của các phương án thay thế và có thể giảm
thiểu được các tác động xấu; đồng thời có tác động môi trường có xu
thế tốt hơn như có khả năng tiêu thoát nhanh, tăng thêm nguồn nước
ngọt dự trữ, tạo được một khu sinh thái mới cho vùng...
Hình ảnh tại Hội thảo:


Theo nguồn: vwsa.org.vn
- Bản tin tuần bao gồm đáng giá hiện trạng chất lượng nước ngày lấy mẫu 16/07/2023 và đánh giá dự báo kết quả chất lượng nước cho ngày 25/07/2023
- Bản tin tuần "Giám sát và dự báo chất lượng nước vùng kẹp giữa hai sông Vàm Cỏ ngày lấy mẫu 02/07/2023 - Dự báo từ ngày 13/07/2023 đến ngày 18/07/2023"
- Bản tin tuần "Giám sát và dự báo chất lượng nước vùng kẹp giữa hai sông Vàm Cỏ ngày lấy mẫu 02/07/2023 - Dự báo đến ngày 12/07/2023
- Bản tin tuần "Giám sát và dự báo chất lượng nước vùng kẹp giữa hai sông Vàm Cỏ ngày lấy mẫu 17/06/2023 - Dự báo từ ngày 27/06/2023 đến ngày 02/07/2023"
- Giải pháp tổng hợp sử dụng nguồn nước vùng Đông Nam Bộ và Phụ cận
- Bờ biển đồng bằng sông Cửu Long - Sạt lở và các giải pháp phòng chống
- Tài liệu hướng dẫn tạm thời kỹ thuật trữ nước, tưới hiệu quả cho cây ăn trái vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Áp dụng trong điều kiện xâm nhập mặn mùa khô năm 2020-2021)
- Các giải pháp kết cấu công trình ven biển thích ứng biến đổi khí hậu