Khoa học
công nghệ thủy lợi
phục vụ
phát triển bền vững
Tin nổi bật
Lễ công bố Quyết định và trao tặng bằng Tiến sĩ đợt 1 năm 2025 tại Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam Việt Nam-Trung Quốc hợp tác giải quyết thách thức về nguồn nước ở Đồng bằng sông Cửu Long Hội thảo Quốc tế -Tuần Lễ Môi Trường và Biến Đổi Khí Hậu tại Việt Nam 2025 (Tuần lễ MTT Việt Nam) Vietnam Environmental and Climate Change Engagement Week 2025 (MTT Week 2025) Công đoàn Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam tổ chức họp mặt kỷ niệm 115 năm ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3/1910 - 08/3/2025) và 1985 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Hội thảo cuối kỳ Đề tài khoa học cấp Tỉnh : Tiềm năng, giải pháp quản lý nước ngọt phục vụ sản xuất và dân sinh hiệu quả ở tỉnh Hậu Giang Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam làm việc với Viện Pasteur Tp. Hồ Chí Minh Mời tham gia khảo sát Dự án “Trao quyền thay đổi: Tiếp cận toàn diện để hành động vì khí hậu, phát triển bền vững và chuyển đổi hành vi dành cho nữ học giả tại TP. Hồ Chí Minh” Hội nghị Tổng kết công tác năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025 Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam. Diễn đàn "Nâng cao năng lực cộng đồng trong phòng chống thiên tai vùng Đồng bằng sông Cửu Long" được tổ chức tại Cần Thơ Video giới thiệu dự án IODA_LMB: “Đánh giá tích hợp khả năng tiếp cận nước sinh hoạt của các cộng đồng dễ bị tổn thương ở Hạ lưu sông Mekong”
Tin tức > Tin tổng hợp


Một công trình nghiên cứu KH&CN khi kết thúc trực tiếp làm ra bao nhiều tiền; hoạt động KH&CN đóng góp như thế nào cho sự tăng trưởng GDP của đất nước?
Những câu hỏi tương tự một lần nữa xuất hiện và làm nóng hội thảo khoa học “Thực trạng quản lí và chi KH&CN giai đoạn 2001-2005, những vấn đề đặt ra trong công các tổ chức và quản lí hoạt động KH&CN” do Kiểm toán Nhà nước và Bộ KH&CN phối hợp tổ chức ngày 9/8/2006.


Thay vì trả lời những câu hỏi trên, Ts. Phạm Hữu Giục - Vụ trưởng Vụ KH&CN các ngành kinh tế - kĩ thuật (Bộ KH&CN) đưa ra ví dụ: Vào những năm giữa thập kỉ 90, do trồng điều không có hiệu quả, nông dân bắt đầu chặt hoặc bỏ mặc cây điều. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của trên 250 nghìn hộ, với gần 2 triệu nhân khẩu vốn chỉ biết trồng điều làm kế sinh nhai. Chính phủ yêu cầu các ngành khoa học phải tập trung giải quyết vấn đề này. Những nghiên cứu về giống, nhân giống, kĩ thuật canh tác... đã được nghiên cứu và kết quả cho đến nay ngành điều đã sống lại với kim ngạch xuất khẩu trên 400 triệu USD, giải quyết công ăn việc làm cho 500 nghìn lao động trồng trọt và 100 nghìn lao động chế biến.
Ngoài cây điều, nhiều lĩnh vực khác cũng có bước chuyển thần kì nhờ đầu tư vào nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ kĩ thuật. Xuất khẩu thủy sản năm 2005 đạt 2,5 tỉ USD và vẫn đang trên đà gia tăng. Nhớ lại những năm 80 của thế kỉ trước, nhiều chính sách, nhiều kế hoạch được đưa ra để phát triển thủy sản, song xuất khẩu thủy sản lúc bấy giờ chủ yếu dựa vào đánh bắt ven bờ hầu như không đáng kể. Cũng vào thời gian này, các nhà khoa học bắt đầu tập trung nghiên cứu để tạo lập ngành nghề mới là nuôi trồng thủy sản xuất khẩu. Kể từ khi các nhà khoa học nghiên cứu thành công và chuyển giao cho sản xuất công nghệ sinh sản nhân tạo và kĩ thuật nuôi cao sản tôm, cá, nhuyễn thể 1 và 2 mảnh vỏ thì thực sự có sự bùng nổ về xuất khẩu thủy sản và kim ngạch liên tục tăng trong vòng 15 năm qua.
Năm 2003, chúng ta thành công về công nghệ sinh sản nhân tạo cua (có tỉ lệ thành công hàng đầu thế giới) và công nghệ nuôi cua cao sản. Đến nay đã có 17/27 tỉnh, thành phố có biển tiếp thu công nghệ này và xây dựng trại sinh sản cua nhân tạo. Các chuyên gia dự báo, trong vòng 10 năm tới, doanh thu của nghề nuôi cua xuất khẩu có thể lên tới hàng nghìn tỉ đồng.


Nhiều trường đại học và viện nghiên cứu nhờ bám sát nhu cầu thực tiễn đã thành công trong việc cung cấp các giải pháp kỹ thuật và công nghệ thích hợp, mang lại hiệu quả kinh tế lớn như: kỹ thuật robot, giải mã gene người và động vật, công nghệ khai thác mỏ, kỹ thuật hạt nhân, quy trình công nghệ tạo giống cây trồng (lúa), vật nuôi (lợn, gia cầm, một số đối tượng thủy sản) có năng suất và chất lượng cao,....
Cùng quan điểm này, Pgs.Ts. Đỗ Huy Định - giám đốc công ty APP cho biết, 5 năm qua (2001-2005), hoạt động KH&CN ở các doanh nghiệp, tổ chức KH&CN và cộng đồng đã có đóng góp nhất định vào việc hoàn thành các nhóm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học là một hoạt động có nhiều đặc thù, không phải nhiệm vụ nào cũng thành công và không phải kết quả nghiên cứu khoa học nào cũng có thể định giá được. Đơn cử như trường hợp Tổng công ty Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) có sự trưởng thành vượt bậc, so với năm 2001 doanh thu năm 2005 tăng gấp 5,46 lần, sản lượng tăng 5,92 lần. Chỉ trong vòng 10 năm, từ chỗ chỉ đóng tàu loại 3.850DWT, hiện nay đã đóng thành công series tàu chở hàng 15.000DWT. Mới đây Vinashin đã hạ thủy tàu chở hàng 53.000DWT và đang đóng mới tàu chở dầu thô 100.000DWT. Vinashin đang phấn đấu đến năm 2010 mỗi năm đóng mới tàu xuất khẩu trị giá 1 tỉ USD, với tỉ lệ nội địa hóa đạt 60%... Những thành công trên có sự đóng góp của nhiều lĩnh vực KH&CN khác nhau.


Ts. Đỗ Huy Định cho rằng, để tạo hiệu quả cho hoạt động KH&CN cao hơn và đóng góp cho sự phát triển kinh tế, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới chính sách đầu tư tài chính đối với hoạt động KH&CN. Đó là công cụ quản lí có tính quyết định tạo ra động lực và môi trường khuyến khích và là “bà đỡ” cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Việc phân bổ tài chính, giao kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, định mức chi tiêu, thu nhập, tiền lương, tiền thưởng, quyền sở hữu tài sản trí tuệ được tạo ra trong quá trình nghiên cứu... cần được tính toán hợp lí sao cho có tác dụng khuyến khích cán bộ nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, việc xã hội hóa hoạt động KH&CN là rất cần thiết, để đến năm 2010 vốn đóng góp của xã hội chiếm 50% tổng vốn chi cho KH&CN cả nước. Kinh nghiệm của các nước cho thấy khi nguồn lực của đất nước còn hạn chế thì việc huy động các nguồn vốn khác ngoài ngân sách cho KH&CN là không thể thiếu được và nguồn vốn này đóng vai trò quyết định trong quá trình thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu. Thông qua các chính sách ưu đãi như dãn nợ, khoanh nợ, xóa nợ, các ưu đãi về thuế… để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm đến và đồng hành cùng nhà khoa học cũng như để kết quả nghiên cứu nhanh chóng được doanh nghiệp đón nhận. Đặc biệt, khi thực hiện việc chuyển đổi các tổ chức KH&CN thì phần đầu tư từ ngân sách sẽ giảm (còn khoảng 50%), thì việc bảo đảm hiệu quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN phụ thuộc rất nhiều vào sự hưởng ứng của doanh nghiệp.


Nguồn: Báo Khoa học và Phát triển, số 33 (17-23/8/06)

 

Liên kết web