Khoa học
công nghệ thủy lợi
phục vụ
phát triển bền vững
Tin tức > Tin tổng hợp

Nước lũ là nguồn tài nguyên mà hằng năm thiên nhiên đã dành ban tặng cho vùng đất châu thổ rộng lớn này. Vì thế, nước lũ phải được coi là nguồn tài nguyên thiên nhiên, cần được quản lý, sử dụng đem lại hiệu quả cao cho sản xuất, đời sống, bảo vệ môi sinh, môi trường.

Những dự án từ hàng triệu tấn phù sa

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là phần cuối cùng của lưu vực sông Mê Công, bao gồm 13 tỉnh, thành phố, với diện tích tự nhiên gần 4 triệu héc-ta, dân số hơn 17 triệu người, đóng góp khoảng 18% GDP của cả nước. Khu vực này hằng năm sản xuất khoảng 50% sản lượng lúa, 52% sản lượng thủy sản, đóng góp khoảng 90% số lượng gạo xuất khẩu và gần 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước.

140906h13.jpg

Người dân ĐBSCL đã quen sống chung với lũ từ bao đời nay.

Theo PGS,TS Lê Mạnh Hùng, Viện Khoa học thủy lợi miền Nam: Hệ sinh thái vùng ĐBSCL được hình thành và phát triển bởi đặc điểm khí hậu riêng và nguồn nước ngọt từ sông Mê Công cùng với lượng nước mưa lớn hằng năm. Cả hai nguồn này đều đặc trưng theo mùa một cách rõ rệt. Lượng nước bình quân của sông Mê Công chảy qua ĐBSCL tới hơn 460 tỷ mét khối và vận chuyển khoảng 150-200 triệu tấn phù sa. Chính lượng nước và khối lượng phù sa đó trong quá trình bồi bổ lâu dài đã tạo nên vùng đồng bằng châu thổ phì nhiêu ngày nay. Những đặc điểm khí hậu này đã tạo ra một nguồn lực rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của sinh vật đạt được năng suất sinh học cao, tạo ra một thảm thực vật và một quần thể động vật phong phú đa dạng, nhưng có tính đồng nhất tương đối trong toàn vùng. Chính vì vậy đó là những điều kiện thuận lợi để tổ chức sản xuất và phát triển sản xuất lương thực-thực phẩm, phát triển sản xuất chế biến sản phẩm nông-thủy-hải sản lớn nhất cả nước.

Ủy ban sông Mê Công tại Việt Nam phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang tập trung triển khai 5 dự án quốc tế bảo vệ môi trường vùng sông Mê Công. Các dự án do Ủy ban sông Mê Công đưa ra đều nằm trong khuôn khổ chương trình viện trợ do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) liên doanh với Chương trình Bảo vệ môi trường Liên hợp quốc (UNEP) cam kết tài trợ. Trong 5 dự án đó có hai dự án cần sớm được triển khai thực hiện là: Xây dựng chiến lược môi trường các nước tiểu khu vực; quản lý và bảo vệ vùng đất ẩm ướt trọng điểm hạ lưu sông Mê Công.

Trong các vùng đất ngập nước ở ĐBSCL có thể xác định được 3 hệ sinh thái tự nhiên. Tất cả các hệ sinh thái này đều rất “nhạy cảm” về môi trường. Những nét đặc trưng chủ yếu của 3 hệ sinh thái là: Hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái đầm nội địa (rừng tràm), hệ sinh thái cửa sông.

Từ năm 1990-1994, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) thông qua Ủy ban quốc tế sông Mê Công đã giúp Việt Nam thực hiện dự án quy hoạch tổng thể Đồng bằng sông Cửu Long (Mekong Delta Master Plan). Dự án này do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chủ trì, có sự tham gia của các bộ, ngành và địa phương liên quan. Qua 5 năm nghiên cứu, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 2-6-1999 Dự án “Quy hoạch kiểm soát và sử dụng nước lũ Đồng bằng sông Cửu Long”. Với phương châm “sống chung với lũ” một cách chủ động để ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, vùng ảnh hưởng lũ trực tiếp ở ĐBSCL khoảng 1,8 triệu héc-ta, được phân thành ba vùng với những giải pháp kiểm soát lũ khác nhau.

"Sống chung với lũ" là một phương châm sáng suốt và đúng đắn, nhưng tiếc rằng giải pháp lựa chọn lại nghiêng về phòng tránh mà chưa có đầu tư gì cho giải pháp tiếp nhận và sử dụng nước lũ, còn lãng phí lũ và chưa thực sự coi nước lũ là một tài nguyên. Trong lúc đất nước còn thiếu vốn, nhưng vẫn còn nhiều chương trình phòng tránh lũ kém hiệu quả như dùng 1.280 tỷ đồng cho dân vay làm nhà trên cọc, dùng 3.000 tỷ để nghiên cứu các kiểu nhà và làm nhà cho đồng bào ĐBSCL, phát triển mạng lưới giao thông bộ quy mô, vừa cản trở thoát lũ vừa thủ tiêu hệ thống giao thông thủy, đắp đê bao quá cao cản trở thoát lũ (nhất là khu vực giữa sông Tiền và sông Hậu)…

Ổn định đời sống, làm giàu mùa lũ

Tài nguyên nước lũ còn là những lợi thế do nước lũ đem lại cho sản xuất và đời sống của người dân vùng ĐBSCL. Đó là lượng phù sa với nhiều khoáng chất, hợp chất hữu cơ bồi đắp ruộng vườn, tăng độ màu mỡ cho đất canh tác; là nguồn cá, tôm, thủy sản nước ngọt, một nguồn thu dồi dào, sinh lợi trực tiếp cho đời sống; là những giống cây-con phát triển, cho năng suất cao trong mùa lũ. Trước đây, mỗi khi lũ về người dân ĐBSCL lại vất vả, lao đao chống chọi với dòng nước lũ. Nhưng nay không còn phải lo cảnh thiếu đói mỗi khi lũ về, nhiều hộ dân ở An Giang-tỉnh đầu nguồn vùng lũ ở ĐBSCL-đã có một cuộc sống ổn định, thậm chí không ít gia đình đã vươn lên khá giả nhờ lũ…

Bà Phạm Kim Yên, Phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang cho biết: Sau 4 năm triển khai Đề án 31 của Ban cán sự Đảng UBND tỉnh về khai thác lợi thế mùa nước nổi, An Giang đã giải quyết việc làm theo thời vụ cho hơn một triệu lao động thuộc hộ nghèo. Qua đó chẳng những góp phần giúp tỉnh giảm tỷ lệ hộ nghèo mà còn phát huy được nội lực của người dân ở địa bàn nông thôn, giảm hẳn được tình trạng nông dân ỷ lại, trông chờ sự giúp đỡ của Nhà nước, giá trị sản xuất bình quân toàn tỉnh cũng từ đó tăng theo, đạt hơn 1.430 tỷ đồng mỗi năm. Đồng thời, tăng đáng kể lượng lương thực, thực phẩm phục vụ đời sống thường nhật của mọi người dân.

Thoại Sơn là một trong những huyện xây dụng được nhiều mô hình, điển hình làm giàu trong mùa lũ ở An Giang. Trước đây, năm nào huyện cũng tổ chức cứu trợ cho dân nghèo, 4 năm trở lại đây thực hiện đề án khai thác tiềm năng và lợi thế mùa lũ để phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho dân thì Thoại Sơn không phải cứu trợ cho hộ nghèo trong mùa lũ. Thoại Sơn là huyện có diện tích nuôi tôm càng xanh trong mùa lũ cao nhất tỉnh An Giang (chiếm gần 80% số diện tích toàn tỉnh). Mùa lũ năm 2005, thoại Sơn đã nuôi gần 540ha, sau khi trừ chi phí, người nuôi tôm lãi từ 30 đến 50 triệu đồng/ha. Nông dân trong huyện trồng 106ha các loài cây thủy sinh, cho thu nhập giá trị từ 12 đến 25 triệu đồng/ha; hộ nuôi cá lồng bè nhỏ, nuôi cá lóc trong vèo có thu nhập từ 7 đến 15 triệu đồng/hộ trong mùa lũ. Xã Ô Long Vĩ (huyện Châu Phú-An Giang) đã xuất hiện 13 ngành nghề như: Nuôi cá trong vèo, nuôi tôm đăng quầng, nuôi ba ba, trồng nấm rơm, nuôi lươn, trồng ấu, sen, rau màu, đan lục bình, trồng bông súng, trồng rau nhút,... thu hút hàng nghìn lao động. Đặc biệt, nuôi tôm càng xanh mùa lũ cho thu nhập rất cao. Những hộ nuôi trúng đạt từ 100 đến 120 triệu đồng/ha.

Cùng với An Giang, địa phương đầu nguồn lũ là tỉnh Đồng Tháp cũng triển khai các mô hình làm ăn mùa lũ. Nông dân các huyện Lai Vung, Lấp Vò, Tháp Mười, thị xã Sa Đéc (Đồng Tháp)… trồng gần 16.219ha hoa màu, phần lớn đều có đê bao bảo vệ. Nhiều hộ thả nuôi hơn 500ha tôm càng xanh đang phát triển tốt, dự kiến sẽ thu hoạch sau khu lũ rút. Hiện nay, nước lũ tràn đồng, nông dân ĐBSCL không còn lo “chạy lũ”; trái lại, nhiều hộ tận dụng mùa lũ để nuôi và đánh bắt thủy sản như là một nghề phụ góp phần tăng thêm thu nhập.

Chúng tôi đến thăm gia đình ông Tư Trí ở xã Thạnh Mỹ, huyện Vĩnh Thạnh, một điển hình nông dân chủ động làm giàu trong mùa lũ của thành phố Cần Thơ. Năm nào cũng vậy, cứ vào mùa nước lũ là gia đình ông Tư Trí lại chuẩn bị đầy đủ phương tiện, bắt đầu cho một mùa làm ăn mới. Gia đình không có công ruộng nào, mùa khô ông Tư Trí và mấy người con đi làm thuê, làm mướn kiếm sống. Lũ về, những người trong gia đình ông bơi xuồng nhỏ đi bắt ốc, cua, cào hến kiếm sống. Hiện nay, hằng ngày, một người bắt được gần 100kg ốc, hến. Ốc đắng bán được giá 1.500 đồng/kg, ốc bươu vàng: 500 - 700 đồng/kg, hến: 800 đồng/kg. Ồng Trần Thanh Hiến ở xã Phú Lợi, huyện Tân Châu, chỉ trong 4 mùa lũ biết tận dụng khai thác thủy sản, trồng rau màu mùa lũ, đã dành dụm mua sắm được một xuồng máy trị giá hơn 50 triệu đồng để vận chuyển hành khách, chủ động làm ăn mùa nước nổi.

Theo TS Nguyễn Hữu Chiếm, Trưởng Khoa Quản lý môi trường và Tài nguyên thiên nhiên, Trường đại học Cần Thơ, nước lũ cần được coi là nguồn tài nguyên quý, đem lại thủy sản nước ngọt dồi dào, phù sa bồi đắp làm màu mỡ ruộng đồng. Đất canh tác ngâm trong nước lũ, và nhờ nước lũ thau rửa sẽ hạn chế được dịch chuột, các loại dịch sâu rầy, các loại nấm bệnh trên cây trồng. Vì thế, chủ động đưa nước lũ vào đồng ruộng để cải tạo môi trường đất canh tác là rất cần thiết, không nên đắp nhiều tuyến đê bao khép kín. Đê bao triệt để trong nhiều năm qua đã làm thay đổi môi trường tự nhiên của các hệ sinh thái đặc trưng vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên. Trong và ngoài đê bao không có sự trao đổi nước nên cặn bã, độc chất trong quá trình sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của con người bị lắng đọng, tồn lưu trong đất, gây nhiễm độc đất. Mặt khác, đê bao làm khô kiệt nước, tạo điều kiện cho lớp phèn tiềm tàng có cơ hội hoạt động mạnh, làm đất mất dần độ màu mỡ.

Biết tận dụng, phát huy lợi thế của nước lũ, coi nước lũ là tài nguyên là thiết thực “Sống chung với lũ”, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển và xây dựng vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010 trở thành một vùng kinh tế trọng điểm của cả nước với tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững.

CHU MÃ GIANG

Nguồn: Báo Quân đội Nhân dân ngày 14/9/2006

Liên kết web