Khoa học
công nghệ thủy lợi
phục vụ
phát triển bền vững
Tin nổi bật
Đảng bộ Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam tổ chức Đại hội lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2025-2030. Lễ công bố Quyết định và trao tặng bằng Tiến sĩ đợt 1 năm 2025 tại Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam Việt Nam-Trung Quốc hợp tác giải quyết thách thức về nguồn nước ở Đồng bằng sông Cửu Long Hội thảo Quốc tế -Tuần Lễ Môi Trường và Biến Đổi Khí Hậu tại Việt Nam 2025 (Tuần lễ MTT Việt Nam) Vietnam Environmental and Climate Change Engagement Week 2025 (MTT Week 2025) Công đoàn Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam tổ chức họp mặt kỷ niệm 115 năm ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3/1910 - 08/3/2025) và 1985 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Hội thảo cuối kỳ Đề tài khoa học cấp Tỉnh : Tiềm năng, giải pháp quản lý nước ngọt phục vụ sản xuất và dân sinh hiệu quả ở tỉnh Hậu Giang Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam làm việc với Viện Pasteur Tp. Hồ Chí Minh Mời tham gia khảo sát Dự án “Trao quyền thay đổi: Tiếp cận toàn diện để hành động vì khí hậu, phát triển bền vững và chuyển đổi hành vi dành cho nữ học giả tại TP. Hồ Chí Minh” Hội nghị Tổng kết công tác năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025 Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam. Diễn đàn "Nâng cao năng lực cộng đồng trong phòng chống thiên tai vùng Đồng bằng sông Cửu Long" được tổ chức tại Cần Thơ
Tin tức > Tin tổng hợp

Liên kết khoa học-đào tạo-sản xuất là một trục xuyên suốt không thể tách rời. Khẩu hiệu được đưa vào nhiều văn bản nhưng chưa được thể chế hoá thành chính sách cụ thể mà chủ yếu được thực hiện thông qua các nhiệm vụ cụ thể, các hợp đồng giữa các viện và trường ĐH. Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ Bùi Mạnh Hải nhận xét.

Bộ GD-ĐT dự định đề xuất với Bộ Khoa học Công nghệ ý tưởng tích hợp viện nghiên cứu không thuộc ĐH vào các trường ĐH. Dưới đây, VietNamNet ghi nhận một số ý kiến từ những người làm công tác quản lý khoa học cho vấn đề này.

Cách đây nhiều năm, Bộ Khoa học và Công nghệ đã nghiên cứu về sự liên kết giữa viện và trường. Sự liên kết khoa học-đào tạo-sản xuất là một trục xuyên suốt không thể tách rời, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ.

Đó là khẩu hiệu được đưa vào nhiều văn bản nhưng chưa được thể chế hoá thành chính sách cụ thể mà chủ yếu được thực hiện thông qua các nhiệm vụ cụ thể, các hợp đồng giữa các viện và trường ĐH.

Hiện nay, chúng ta có 3 kiểu liên kết. Trước hết là liên kết trong lĩnh vực khoa học cơ bản. Đây là sự liên kết rất tốt. Nhiều kết quả của các đề tài, chương trình nghiên cứu cơ bản đã được đưa vào chương trình đào tạo ĐH và Sau ĐH. Các nhà khoa học từ các viện nghiên cứu cũng tham gia quá trình đào tạo đó.

Thứ hai là liên kết thông qua các đề tài, dự án trọng điểm. Đây là hình thức tập hợp lực lượng của các Viện và trường thông qua những mục tiêu của dự án.

Thứ ba là hình thức liên kết mang tính tự thân. Các nhà nghiên cứu đến giảng dạy ở các trường ĐH. Các giáo viên ở trường ĐH lại đến tham gia nghiên cứu và đào tạo ở các viện.

Những hình thức đó tạo nên cơ chế sinh động và linh hoạt và dựa trên cơ sở những nhiệm vụ cụ thể, những công tác cụ thể về đào tạo, thử nghiệm, thí nghiệm, sản xuất kinh doanh, dịch vụ.

Có những nước thì viện nghiên cứu nằm trong trường ĐH, có nước thì viện nằm độc lập bên ngoài như một doanh nghiệp khoa học công nghệ. Vì thế, sự gắn kết đó không bắt buộc phải gượng ép theo kiểu hành chính mà phụ thuộc vào điều kiện từng nước.

Các trường ĐH ở nước ngoài thường là trường đa ngành, đa lĩnh vực nên có thể bao gồm rất nhiều viện nghiên cứu. Hiện nay chúng ta cũng đang hướng tới mô hình đó. Nhưng đồng thời các viện nghiên cứu độc lập vẫn phát huy hiệu quả, phục vụ trực tiếp cho sản xuất của các Bộ, các ngành. Các viện nghiên cứu về cơ chế, chiến lược cho các ngành thì phải tham mưu cho ngành chứ không cần đưa vào các trường ĐH.

Tôi thấy ở nhiều nước, như Trung Quốc chẳng hạn, có rất nhiều viện nghiên cứu không nằm trong các trường ĐH mà nằm trong các công ty hoặc là hoạt động như một doanh nghiệp độc lập.

Để tích hợp viện nghiên cứu với trường ĐH thì phải thực hiện một số biện pháp sau:

Thứ nhất là tạo cơ chế kiêm nhiệm, để cán bộ khoa học ở các viện nghiên cứu có thể kiêm nhiệm là giảng viên ở các trường ĐH và ngược lại, cán bộ giảng dạy ở trường ĐH đồng thời là cộng tác viên của các viện nghiên cứu.

Thứ hai là đẩy mạnh cơ chế hợp tác thông qua các dự án cụ thể hoặc các phòng thí nghiệm hỗn hợp giữa viện và trường.

Thứ ba là xây dựng chương trình liên kết cụ thể.

Lẽ ra, phải có sự liên kết giữa viện nghiên cứu, trường ĐH và doanh nghiệp. Sự liên kết 3 bên này sẽ tạo ra một sân chơi có tiếng nói chung, có sự hiểu biết về cơ chế và nhu cầu của nhau, trên cơ sở đó “đặt hàng” lẫn nhau. Đó là mô hình xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia và hiện đang được nhiều nước trên thế giới thực hiện.

20070102_Vien_Truong.jpg

Trao giải cho các nhà nghiên cứu

khoa học ngày 31/12/2006

Trao giải cho tác giả đề tài nghiên cứu khoa học ngày 31/12/2006. Ảnh: Lan Hương
GS.TSKH Trần Duy Quý (Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp VN): Nhiệm vụ của giảng viên trước hết là giảng dạy, rồi đến nghiên cứu. Trước đến nay nhà nghiên cứu độc lập với giảng dạy nên không truyền đạt được kiến thức mới cho SV dẫn đến sự lãng phí chất xám. Giáo viên thì thiếu kiến thức thực tiễn. Vì thế, chủ trương thành lập các viện nghiên cứu trong trường ĐH là rất đúng đắn. Các nhà nghiên cứu cũng có thể thông qua công tác giảng dạy để được công nhận chức danh.

Sự liên kết viện-trường ở nước ta từ trước đến nay còn lỏng lẻo. Vì vậy cần có sự chuyển đổi mạnh hơn nữa.

Đề xuất “tích hợp” viện nghiên cứu và trường ĐH là một chủ trương tốt vì sẽ không gây xáo trộn lớn về tổ chức. Các đề tài nghiên cứu muốn được duyệt phải ít nhất đào tạo được 1 TS hoặc vài thạc sỹ. Muốn vậy, các nhà khoa học phải tham gia giảng dạy ở các trường và đưa đề tài nghiên cứu gắn với các trường.

Vừa qua, Viện Khoa học Nông nghiệp VN đã có quy định bắt buộc đề tài của các nghiên cứu sinh thuộc viện đều phải gắn với một trong những đề tài trọng điểm cấp Bộ hoặc cấp Nhà nước. Việc này dẫn đến hai mặt lợi. Thứ nhất là đề tài nghiên cứu gắn với thực tiễn. Thứ hai là có kinh phí để đào tạo có chất lượng. Lâu nay, do không có đủ kinh phí mà chất lượng đào tạo nghiên cứu sinh của ta chưa tốt như các nước.

Nhưng nếu “tích hợp” được các cơ sở đào tạo và nghiên cứu thì sẽ đào tạo những SV, nghiên cứu sinh với những luận án có chất lượng cao về khoa học và ý nghĩa thực tiễn.

PGS.TS Nguyễn Văn Tuất (Viện trưởng Viện nghiên cứu cây lương thực và cây thực phẩm): Chúng tôi có liên kết với một số trường như ĐH Cần Thơ, ĐHQG Hà Nội, ĐH Nông nghiệp I... Sự liên kết này thông qua hợp đồng kỹ thuật ban đầu, lựa chọn những vấn đề cần giải quyết. Chúng tôi thường xuyên liên lạc bằng email.

Trường gửi SV đến thực tập tại phòng thí nghiệm, tham gia đáng giá và khảo sát chế phẩm. Đó là cách thức học rất hiệu quả thông qua các đề tài, dự án. Một số SV học tập tốt đã được giữ lại làm việc tại viện.

Sự liên kết này tập hợp được các nhà khoa học. Các giảng viên rất mạnh về lý thuyết còn các nhà nghiên cứu lại có ưu thế về thực nghiệm. Bên cạnh đó, có thể tập hợp được SV - đội ngũ nhân lực trẻ ham học hỏi, nhiệt tình, say mê và nhanh chóng nắm bắt kỹ thuật mới. Đây cũng là cơ hội để SV được tiếp xúc thực tế.

Ở nước ta vẫn tách bạch các ngành, giáo dục riêng, nghiên cứu riêng, nhưng những năm gần đây cũng đã có sự đan xen. Nhiều trường ĐH mời các nhà nghiên cứu về làm giáo viên thỉnh giảng và đề tài nghiên cứu cũng được giao cho cán bộ giảng dạy rất nhiều.

Nguồn: VietNamnet



Liên kết web