|
Ngày 24/3/2008 tại TP.Hồ Chí
Minh, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức tọa đàm về Chương
trình củng cố, nâng cấp đê biển hiện có và rà soát quy hoạch để hoàn thiện
hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang để lấy ý kiến về việc xác định
tuyến, các thông số và chỉ tiêu thiết kế các tuyến đê biển.
Chủ trì tọa đàm có Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Cao Đức Phát, Thứ trưởng
Đào Xuân Học. Đ/c Võ văn Kiệt, nguyên Thủ tướng Chính phủ đã đến dự và phát
biểu.
Tham gia tọa đàm có Cục Quản lý đê điều và Phòng chống lụt bão, đại diện Sở
Nông nghiệp và PTNT các tỉnh, thành phố từ Quảng Ngãi tới Kiên Giang; các cơ
quan Trường, Viện, Công ty tư vấn thuộc Bộ, Đại học Bách Khoa TP.HCM, Đại
học Cần Thơ; các Đài khí tượng thủy văn khu vực; Hội Thủy lợi TP.HCM và một
số nhà khoa học.
Bộ trưởng Cao Đức Phát đã phát biểu định hướng tọa đàm. Cục trưởng Cục QLĐĐ&PCLB
Đặng Quang Tính đã phát biểu gợi ý các nội dung cần thảo luận trao đổi. Toạ
đàm đã nghe nhiều ý kiến tham luận của các nhà khoa học, các cơ quan, các
địa phương.
Sau đây là một số thông tin
tóm tắt về Chương trình (nguồn: Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam).
+ Tính cấp thiết của chương
trình củng cố nâng cấp đê biển các tỉnh từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang
Hệ thống đê biển đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo phát triển
bền vững dải đất ven biển, có nhiệm vụ ngặn mặn giữ ngọt, bảo vệ tính mạng
và tài sản của người dân, là tấm lá chắn hữu hiệu nhằm ngăn chặn những tác
động bất lợi từ biển. Qua các thời kỳ khác nhau, tuyến đê biển từ Quảng Ngãi
đến Kiên Giang đã được hình thành và phát triển với những ưu điểm và những
mặt hạn chế sau:
- Đê biển, đê cửa sông đã phần
nào phát huy được tác dụng ngăn mặn xâm nhập vào đồng, bảo vệ sản xuất, tính
mạng và tài sản của người dân vùng ven biển. Nhiều khu vực đã có điều kiện
để lấn biển, mở rộng đất canh tác, góp chuyển đổi mùa vụ, cơ cấu cây trồng.
Một số tuyến đê trở thành tuyến giao thông ven biển quan trọng góp phần phát
triển kinh tế xã hội của khu vực;
- Do được xây dựng qua nhiều
thời kỳ và phát triển theo từng địa phương, nên chưa có quy hoạch tòan diện,
không thống nhất về tuyến cũng như một số tiêu chuẩn kỹ thuật của đê, chưa
đáp ứng yêu cầu lợi dụng tổng hợp tài nguyên ven biển, thiếu tầm nhìn đa mục
tiêu: đảm bảo an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế xã hội và du lịch…;
- Nhiều tuyến đê biển, đê cửa
sông hiện chưa đủ khả năng phòng chống thiên tai, khi phải chịu triều cường
và bão thường bị thiệt hại lớn (như bão số 5 năm 2007). Các tuyến đê biển,
đê cửa sông chưa khép kín, nhiều đọan đê còn thiếu cầu, cống do đó chưa chủ
động trong tiêu úng, tiêu phèn, hạn chế hiệu quả ngăn mặn, giữ ngọt, chưa
đáp ứng yêu cầu nuôi trồng thủy sản, chưa đảm bảo yêu cầu kết hợp giao thông
ven biển;
Mặt khác vài thập niên gần đây
thiên tai xảy ra khốc liệt hơn do biến đổi khí hậu tòan cầu. Tình hình bão
lũ, động đất, sóng thần, sạt lở..., xuất hiện nhiều hơn, cường độ lớn hơn,
diễn biến khó lường, không tuân theo quy luật. Đặc biệt trong tương lai biến
đổi khí hậu toàn cầu sẽ dẫn tới tình trạng nước biển dâng. Theo cảnh báo của
Liên hiệp quốc thì Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nghiêm
trọng của hiện tượng nước biển dâng. Nếu mực nước biển tăng thêm 1m, Việt
Nam sẽ phải đối mặt với mức thiệt hại lên tới 17 tỷ USD/năm, 1/5 dân số sẽ
mất nhà cửa, 12,3% diện tích đất trồng trọt sẽ biến mất và 40.000 km2 diện
tích đồng bằng, 17 km2 diện tích bờ biển ở khu vực các tỉnh lưu vực sông
Mêkông sẽ chịu tác động của những trận lũ ở mức độ không thể dự đoán được.
Vì thế thực hiện chương trình
củng cố, nâng cấp đê biển hiện có và rà sóat quy hoạch để hòan thiện hệ
thống đê biển các tỉnh từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang nhằm đảm bảo an tòan để
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng là hết sức cấp
thiết.
+ Mục tiêu và nhiệm vụ của
chương trình
* Mục tiêu
- Phòng tránh thiên tai do tác động từ biển gây ra;
- Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các ngành kinh tế và thực hiện
thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế biển;
- Bảo vệ an ninh quốc phòng.
* Nhiệm vụ
- Củng cố chống xuống cấp và chống vỡ các tuyến đê biển đã được đầu
tư khôi phục, nâng cấp nhằm phát huy những thành quả của các dự án được đầu
tư những năm trước đây.
- Hoàn thiện các công trình phụ trợ để nâng cao hiệu quả đầu tư (trồng rừng
ngập mặn trước đê vừa để chống sóng cho đê vừa cải tạo môi trường sinh thái;
xây dựng mới hoặc sửa chữa các cống dưới đê phục vụ phát triển sản xuất các
ngành kinh tế.
- Xây dựng đường giao thông nối đê biển với hệ thống giao thông phía trong
nội đồng;
+ Phạm vi Chương trình
Phạm vi của dự án là toàn bộ hệ thống đê biển các tỉnh từ Quảng Ngãi đến
Kiên Giang, bao gồm 15 tỉnh thành phố: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tp. Hồ Chí Minh, Tiền Giang,
Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang.
+ Nguyên tắc bố trí tuyến và chỉ tiêu kỹ thuật đê biển các tỉnh từ Quảng
Ngãi đến Kiên Giang
* Nguyên tắc bố trí
tuyến đê
Tuyến đê biển
- Tận dụng tối đa tuyến đê hiện hữu, phù hợp quy hoạch tổng thể của vùng,
kết hợp với giao thông và quốc phòng;
- Phù hợp diễn biến dải ven biển: đối với khu vực biển thóai tuyến đê có thể
lấn ra phía biển để tận dụng đất sản xuất nhưng vẫn phải có tuyến đê chắc
chắn bảo vệ dân cư, bảo vệ sản xuất phía trong rừng phòng hộ rộng ít nhất
200 m theo luật đê điều, đối với biển tiến cần phải có tuyến đê dự phòng,
phải khôi phục rừng phòng hộ đảm bảo đủ chiều rộng tối thiểu của luật đê
điêu và xây dựng kè phá sóng bảo vệ rừng phòng hộ, trong trường hợp cần
thiết phải phải đóng cọc tạo các hàng cây bằng bêtông, gỗ giằng lại.
Tuyến đê vùng cửa sông
Tuyến đê cửa sông cần đảm bảo thóat lũ và an tòan dưới tác dụng của các yếu
tố ảnh hưởng của sông biển. Đối với cửa sông hình phễu, cần khống chế tuyến
đê để không gây ra hiện tượng sóng dồn, làm tăng chiều cao sóng gây nguy
hiểm cho bờ.
Đê biển đê cửa sông phải được nối với hệ thống giao thông phía trong nội
đồng để có thể ứng phó kịp thời khi gặp sự cố.
+ Kiến nghị bố trí tuyến đê biển, đê cửa sông từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang
* Tuyến đê biển, đê cửa
sông các tỉnh từ Quảng Ngãi tới Bà Rịa Vũng Tàu
Các tỉnh nam Trung Bộ chỉ bố trí chủ yếu ở các khu vực cửa sông, ven
đầm để ngăn mặn giữ ngọt, chống lũ tiểu mãn và thóat lũ chính vụ nhanh.
Tuyến đê bô trí chủ yếu trùng với đê hiện có, cụ thể được thể hiện trong Phụ
lục.
* Tuyến đê biển, đê cửa
sông các tỉnh từ tp. HCM tới mũi Cà Mau
Nhìn chung bờ biển Nam Bộ chủ yếu là biển thóai, xu thế bồi chiếm ưu
thế. Vì vậy về cơ bản bố trí tuyến đê biển Nam Bộ theo tuyến đê hiện có. Một
số tuyến đê cần phải có những giải pháp bảo vệ đó là:
- Tuyến đê Gò Công 1 (Tiền Giang) cần phải bố trí thêm tuyến đê dự phòng dài
14,6 km, đồng thời phải khôi phục và bảo vệ rừng phòng hộ.
- Tuyến đê biển Tây Cà Mau và Kiên Giang.
- Tuyến đê Bạc Liêu khu vực cửa Gành Hào, là nơi tập trung dân cư nên không
thể lùi tuyến đê vào mà phải làm kè bảo vệ.
Khu vực chưa có đê hoặc tuyến đê chưa khép kín thì cần phải xây mới như:
- Tỉnh Bến Tre : Tuyến đê Ba Tri dài 32 km, đê Thạnh Phú dài 51 km.
- Tỉnh Trà Vinh: Đoạn Long Hữu – Hiệp Thạnh, Hồ Tàu - Ông Năm dài khỏang
18,5 km.
- Tỉnh Cà Mau: tuyến đê Đông dài 135 km.
Kiến nghị bố trí tuyến đê biển ở các tỉnh từ tp. Hồ Chí Minh tới mũi Cà Mau
được thể hiện ở các bản đồ phần Phụ lục.
+ Chỉ tiêu kỹ thuật
*Trong giai đọan trước
mắt, chưa xét tới hiệu ứng nước biển dâng:
- Đê biển, đê cửa sông vùng sản xuất đảm bảo an tòan với mức triều
cao tần suất p = 5% có gió bão cấp 9 (đối với đê miền Trung bảo đảm tần suất
chống lũ tiểu mãn p = 10%.);
- Đê biển, đê cửa sông vùng tập trung dân cư: đảm bảo an toàn mức triều cao
tần suất p = 5% có gió bão cấp 12;
Để kết hợp để biển làm đường giao thông và đảm bảo an ninh quốc phòng tiêu
chẩn thiết kế đê biển phải đảm bảo TCVN 4054 -2005 của Bộ giao thông và đáp
ứng được tải trong H13 theo yêu cầu của quốc phòng.
Như vậy thông số cơ bản của đê biển phải đạt là:
- Đê biển từ Quảng Ngãi tới Bình Thuận, cao trình đỉnh từ 1,5 tới 2 m, rộng
4 m, mái đồng 2, mái biển 3. Đê chỉ đảm bảo sản xuất.
- Đê biển từ Bà Rịa Vũng Tàu tới mũi Cà Mau, cao trình đỉnh từ 3,5-4 m, rộng
7,5 m, mái đồng 2, mái biển 3, cấp tải trọng H13.
- Đê biển từ mũi Cà Mau tới Hà Tiên cao trình đỉnh từ 2,0-2,5 m, mặt đê rộng
7,5 m, mái biển 3, mái đồng 2, tải trọng H13.
*Trong giai đọan lâu dài
khi xét tới hiệu ứng nước biển dâng
Trong giai đọan lâu dài, khi tính đến mực nước biển dâng cao, thì
cao trình đê biển phải được nâng cao. Khi đó sẽ tiến hành đắp áp trúc lân
mái đê phía đồng vì thế trong giai đọan trước mắt khi đắp đê không được lấy
đất cách chân đê phía đồng khỏang 20 m.
+ Giải pháp kỹ thuật củng cố, nâng cấp đê biển, đê cửa sông
Do tuyến đê biển được xây dựng trên nền đất yếu vì thế cần tiến hành xử lý
nên trước khi xây dựng áp trúc nâng cao trình đê. Do thời gian nén lún đất
nền đê chậm vì thế sau khi đắp đê đạt cao trình phải chờ thời gian lún ổn
định mới cứng hóa mặt đê.
Tuyến đê vùng ĐBSCL sẽ đi qua nhiều sông, kênh, rạch vì thế khi làm cầu cống
cần phải đảm bảo đủ khẩu độ, đảm bảo giao thông thủy. Nhìn chung cần tập
trung một số cửa thóat ra biển để công tác quản lý vận hành được thuận lợi.
Tính khẩu diện của các cống dưới đê cần tính chính xác trên cơ sở tính toán
thủy lực mạng.
Một số hình ảnh tọa đàm
|
|
|
|